Chuyển đến nội dung chính

Bài thuốc chữa bạch điến

Bạch điến phong là tình trạng có từng vùng trên da tự nhiên xuất hiện các đốm trắng, có thể lan tràn sang các vùng lân cận, thường không đau, ít ngứa. Đông y cho nguyên nhân gây bệnh do tâm hỏa vượng, mồ hôi ra quá nhiều hay do uống rượu quá độ làm bì phu và khiếu khai mở bất bình thường làm huyết thiếu tại bì phu, phong tà thừa hư mà xâm phạm vào bì phu tấu lý, ẩn phục lâu ngày gây tổn thương bì phu cơ nhục mà gây bệnh.

Người bệnh có biểu hiện trên da xuất hiện những đốm màu trắng, bề mặt phẳng như các vùng da khác, không đau, ít ngứa. Bệnh hay gặp ở tuổi trung niên và hay lan tràn sang các vùng lân cận. Đa số tồn tại kéo dài, có khi suốt đời, không có biến chứng, không ảnh hưởng sức khỏe, chỉ gây mất thẩm mỹ. Phép điều trị là dưỡng âm, bổ huyết, khu phong, thanh nhiệt. Sau đây là một số bài thuốc để chữa trị:

Thuốc uống:

Bài 1: Thông khiếu hoạt huyết thang: xích thược 3g, đào nhân 9g, lão thông 3g, xuyên khung 3g, hồng hoa 9g, hồng táo 5g, xạ hương 0,15g. Thêm rượu loãng, sắc uống. Hoạt huyết thông khiếu. Chữa bạch điến phong. Không dùng cho phụ nữ có thai.

Tạo giác

Bài 2: Truy phong hoàn: hà thủ ô 16g, kinh giới tuệ 16g, thương truật 16g, khổ sâm 16g, tạo giác tử 32g. Các vị tán bột mịn, dùng hạt tạo giác nấu kỹ, đánh nhuyễn, lọc lấy hỗn dịch; trộn với bột làm viên, ngày uống 3 lần, mỗi lần 10 - 15g với rượu hoặc nước chè, tùy tuổi và thể trạng. Bài này có tác dụng tháo thấp khu phong. Chủ trị bạch điến.

Bài 3: Hồ ma tán: hồ ma tử 20g, bạch chỉ 12g, hà thủ ô đỏ 4g, mạn kinh tử 4g, cúc hoa 4g, khổ sâm 12g; uy linh tiên, thăng ma, phòng phong, đương quy, bạc hà diệp, hoàng liên, hoàng cầm, bạch thược, xuyên khung, ngưu bàng tử mỗi loại 8g; bạch tật lê 12g, kinh giới tuệ 12g. Các vị sấy khô, tán bột, dùng hồ làm viên. Ngày uống 3 lần; mỗi lần 20g. Từ xuân phân đến thu phân, uống với rượu trắng; từ thu phân đến xuân phân, uống với thanh trà.

Bài 4: hồng hoa, đương quy, thục địa, sinh địa, hạ khô thảo mỗi loại 12g; tiêu tứ tiền, hồ ma tử, sa uyển tử, hà thủ ô mỗi loại 16g. Sắc uống.

Thuốc dùng ngoài:

Bài 2: phá cố chỉ 63g, cồn 700: 200ml. Ngâm trong 7 ngày, gạn lấy rượu thuốc, bôi lên chỗ bạch điến, lang ben. Ngày 1 lần. Dùng phá cố chỉ có tác dụng tăng cường sắc tố da.

Bài 1: thỏ ty tử (cả thân và hạt) 25g, ngâm trong 100ml cồn 800 trong 2 ngày, đem xát vào vùng bị bệnh. Ngày 2 - 3 lần.

Bài 3: thủy ngân và trầu không giã nhỏ mịn, để trong lọ thủy tinh kín ít nhất 15 ngày. Lấy bột bôi lên vết bạch điến.

Bài 4: lưu huỳnh 20g, hùng hoàng 10g, phá cố chỉ 30g, ngâm với 100ml cồn 800. Dùng hỗn dịch này sát vào vùng bị bạch điến hằng ngày.

Lương y Thảo Nguyên

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Thuốc Đông y điều trị viêm phế quản

Trong thời tiết mùa đông, nhiệt độ trong ngày chênh lệch lớn, nóng lạnh thay đổi đột ngột khiến mọi người, đặc biệt là trẻ em và người già yếu dễ mắc viêm phế quản. Câu hỏi mà nhiều độc giả quan tâm là điều trị bằng YHCT có mang lại hiệu quả với bệnh viêm phế quản hay không khi mà việc lạm dụng kháng sinh tại nước ta đang gia tăng và nhiều cảnh báo nguy cơ kháng thuốc? Bài viết này sẽ cung cấp một số thông tin giúp bạn đọc hiểu rõ hơn về các phương pháp của YHCT trong điều trị viêm phế quản. Bệnh viêm phế quản là tình trạng viêm nhiễm cấp hoặc mạn tính niêm mạc đường thở từ thanh quản trở xuống tới nhu mô phổi. Căn nguyên gây viêm phế quản thường là do virut, vi khuẩn. Đây là bệnh lý nhiễm khuẩn đường hô hấp thường gặp khi thời tiết chuyển mùa. Theo YHCT, viêm phế quản thuộc phạm vi chứng “khái thấu” và “đàm ẩm”. Theo YHCT, nguyên nhân gây bệnh bên ngoài chủ yếu do cảm thụ phải tà khí của lục dâm như ngoại cảm phong hàn, phong nhiệt. Những yếu tố này làm cho phế khí bị ngưng trệ, mất t...

Bài thuốc chữa bệnh goute

Bệnh goute (gút) là bệnh rối loạn chuyển hóa và tăng lắng đọng các tinh thể acid uric tại các khớp. Theo Y học cổ truyền, bệnh gút gọi là “thống phong”, thuộc chứng tý. Nguyên nhân do phong, hàn và thấp làm ảnh hưởng đến công năng của can, thận và tỳ gây khí trệ huyết ứ và đàm trọc ách trở sinh bệnh. Sau đây là một số thuốc trị bệnh theo các thể: Thể phong thấp nhiệt: người bệnh đau khớp đột ngột, thường vào lúc nửa đêm, có khi phát sốt. Tại chỗ khớp: sưng nóng đỏ đau; lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng dày, mạch huyền sác. Phép chữa là thanh nhiệt trừ thấp, tiết trọc thông lạc. Dùng bài Thanh trọc thống tý thang: nhẫn đông đằng 30g, hoàng bá 15g, ý dĩ 24g, thổ phục linh 24g, huyền sâm 16g, đương quy 12g, một dược 10g, ngưu tất 12g, phòng kỷ 12g, tần giao 12g, thất diệp 24g. Sắc uống. Gút là bệnh rối loạn chuyển hoá và lắng đọng các tinh thể acid uric ở khớp. Đông y gọi là bệnh thống phong. Thể khí trệ trọc ứ: khớp sưng đau khiến người bệnh không đi lại được, hay tái phát, bệnh kéo dài dai dẳng,...

Ngũ vị và chiêm nghiệm cuộc đời

Người xưa tin rằng, ngũ hành tương sinh tương khắc, chuyển hóa qua lại, là nguồn gốc của sự vận động vũ trụ và bên trong con người. Chính vì thế, nếu dinh dưỡng cân bằng được ngũ vị, sẽ đảm bảo cơ thể khỏe mạnh, ngũ tạng được bồi bổ, sức khỏe dài lâu. Tác dụng của các vị Đông Y cho rằng, ngũ vị tương ứng với ngũ hành tạng phủ như sau: vị chua thuộc Mộc vào tạng Can, vị cay thuộc Kim vào tạng Phế, vị mặn thuộc Thủy vào tạng Thận, vị ngọt thuộc Thổ vào tạng Tỳ, vị đắng thuộc Hỏa vào tạng Tâm. Chuộng vị nào sẽ bổ cho tạng đó. Để đảm bảo cho các cơ quan được hoạt động tốt, người ta có thể “bổ” chúng bằng các vị. Mỗi cơ quan tương ứng với một vị. Bằng cách áp dụng tương sinh và tương khắc, ta có thể rút ra được: Vị mặn đi vào thận (hành thủy), nhưng mặn quá sẽ hại tim và ruột non (hành hỏa). Vị đắng đi vào tim (hành hỏa), nhưng đắng quá sẽ hại phổi và ruột già (hành kim). Vị cay đi vào phổi (hành kim), nhưng quá cay sẽ hại gan (hành mộc). Vị chua đi vào gan (hành mộc), nhưng chua quá sẽ làm...