Chuyển đến nội dung chính

Bài thuốc trị chứng thiếu dương

Chứng thiếu dương chỉ những cơn rét, cơn sốt xen kẽ nhau, mỗi ngày có một cơn hoặc hai ba cơn, bệnh phát ra có giờ giấc nhất định, thường phát về ban ngày. Chứng này thường gặp trong bệnh ngược tật (sốt rét) hoặc âm dương cùng hư, ở người cao tuổi. Tùy từng trường hợp mà dùng bài thuốc phù hợp như sau:

Để phòng bệnh phát ra, nếu có phát bệnh thì triệu chứng nhẹ hơn:

Bài thuốc: “Vân mẫu trư linh thang”: vân mẫu 100g, thục tất (sao) 12g, bạch vi 8g, hoàng cầm 8g, trư linh 12g, đương qui 8g, sài hồ 12g, bán hạ (chế) 8g.

Gia giảm:

Nếu rét nhiều, bỏ hoàng cầm gia long cốt 12g; nếu sốt cao, bỏ bán hạ gia tri mẫu 12g; nếu lưỡi nhớt nhiều, ăn kém, gia thảo quả 8g; nếu sốt lâu ngày không dứt, gia đảng sâm 12g, bạch truật 12g, mẫu lệ 12g, sinh khương 12g, đại táo 12g.

Ngày một thang sắc uống 3 lần trong ngày, uống trước khi ăn khi thuốc còn nóng.Quế chi.

Quế chi.

Nếu sốt rét lâu ngày, cơn sốt ngày càng nặng:

Triệu chứng: Cơ thể gầy còm, lên cơn sốt rét dữ dội không có giờ nhất định, hơi thở yếu, lòng trắng của mắt xanh biếc, da khô tróc vảy, lưỡi đỏ tía, không nhuận, gốc lưỡi và giữa lưỡi có màu đen, bệnh biến chứng do tỳ thận hư suy.

Phép trị: Bổ tỳ thận tiệt ngược tà.

Bài thuốc: “Thủ ô cố chỉ thang”: hà thủ ô (chế) 20g, thục địa 10g, can khương (thán sao) 6g, phục linh 12g, phá cố chỉ 12g, phụ tử (chế) 4g, sơn thù nhục 10g, bạch truật 12g, sinh khương 12g, đại táo 12g. Gia giảm: nếu táo bón, gia nhục thung dung 10g, đương qui 10g.

Ngày một thang sắc uống 3 lần trong ngày uống trước khi ăn hoặc lúc đói.

Do cảm nhiễm phong hàn:

Triệu chứng: khi bệnh nhân bắt đầu cơn sốt rét, thấy khó chịu nằm ngồi không yên, ngực đầy, đau đầu chóng mặt, ù tai, miệng lưỡi khô, tim hồi hộp, ra mồ hôi, tay chân run rẩy.

Phép trị: Thư can (gan) bình can ôn dương hóa ẩm, điều hòa tam tiêu.

Bài thuốc: “Sài hồ gia long cốt mẫu lệ thang”: sài hồ 12g, đảng sâm 12g, cam thảo 10g, phục linh 12g, long cốt 16g, đại táo 15g, bán hạ (chế) 10g, hoàng cầm 10g, quế chi 10g, thục đại hoàng 6g, mẫu lệ 16g, sinh khương 12g.

Gia giảm:

Nếu khí xông lên vùng ngực làm phiền loạn, đau vùng vị quản vã mồ hôi, gia bạch truật 12g.

Nếu can khí xông lên đau đầu chóng mặt, tai ù, tai điếc, co giật, nước tiểu đục, đái giắt, đau vùng lưng, tay chân tê, mạch huyền đại khẩn, gia quế chi 10g, ngô thù du 10g.

Nếu tim hồi hộp, đau vùng vị quản, bỏ quế chi, gia nhục quế 10g, sinh khương 6g; nếu vùng bụng co giật, bỏ đại hoàng, gia thục địa 6g.

Nếu chính khí suy yếu, bệnh nhân co giật, bỏ đảng sâm, gia nhân sâm 12g.

Ngày một thang, sắc uống 3 lần trong ngày, uống sau khi ăn, khi thuốc còn ấm.

TTND. BS. Nguyễn Xuân Hướng

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Thuốc Đông y điều trị viêm phế quản

Trong thời tiết mùa đông, nhiệt độ trong ngày chênh lệch lớn, nóng lạnh thay đổi đột ngột khiến mọi người, đặc biệt là trẻ em và người già yếu dễ mắc viêm phế quản. Câu hỏi mà nhiều độc giả quan tâm là điều trị bằng YHCT có mang lại hiệu quả với bệnh viêm phế quản hay không khi mà việc lạm dụng kháng sinh tại nước ta đang gia tăng và nhiều cảnh báo nguy cơ kháng thuốc? Bài viết này sẽ cung cấp một số thông tin giúp bạn đọc hiểu rõ hơn về các phương pháp của YHCT trong điều trị viêm phế quản. Bệnh viêm phế quản là tình trạng viêm nhiễm cấp hoặc mạn tính niêm mạc đường thở từ thanh quản trở xuống tới nhu mô phổi. Căn nguyên gây viêm phế quản thường là do virut, vi khuẩn. Đây là bệnh lý nhiễm khuẩn đường hô hấp thường gặp khi thời tiết chuyển mùa. Theo YHCT, viêm phế quản thuộc phạm vi chứng “khái thấu” và “đàm ẩm”. Theo YHCT, nguyên nhân gây bệnh bên ngoài chủ yếu do cảm thụ phải tà khí của lục dâm như ngoại cảm phong hàn, phong nhiệt. Những yếu tố này làm cho phế khí bị ngưng trệ, mất t...

Ngũ vị và chiêm nghiệm cuộc đời

Người xưa tin rằng, ngũ hành tương sinh tương khắc, chuyển hóa qua lại, là nguồn gốc của sự vận động vũ trụ và bên trong con người. Chính vì thế, nếu dinh dưỡng cân bằng được ngũ vị, sẽ đảm bảo cơ thể khỏe mạnh, ngũ tạng được bồi bổ, sức khỏe dài lâu. Tác dụng của các vị Đông Y cho rằng, ngũ vị tương ứng với ngũ hành tạng phủ như sau: vị chua thuộc Mộc vào tạng Can, vị cay thuộc Kim vào tạng Phế, vị mặn thuộc Thủy vào tạng Thận, vị ngọt thuộc Thổ vào tạng Tỳ, vị đắng thuộc Hỏa vào tạng Tâm. Chuộng vị nào sẽ bổ cho tạng đó. Để đảm bảo cho các cơ quan được hoạt động tốt, người ta có thể “bổ” chúng bằng các vị. Mỗi cơ quan tương ứng với một vị. Bằng cách áp dụng tương sinh và tương khắc, ta có thể rút ra được: Vị mặn đi vào thận (hành thủy), nhưng mặn quá sẽ hại tim và ruột non (hành hỏa). Vị đắng đi vào tim (hành hỏa), nhưng đắng quá sẽ hại phổi và ruột già (hành kim). Vị cay đi vào phổi (hành kim), nhưng quá cay sẽ hại gan (hành mộc). Vị chua đi vào gan (hành mộc), nhưng chua quá sẽ làm...

Bài thuốc chữa bệnh goute

Bệnh goute (gút) là bệnh rối loạn chuyển hóa và tăng lắng đọng các tinh thể acid uric tại các khớp. Theo Y học cổ truyền, bệnh gút gọi là “thống phong”, thuộc chứng tý. Nguyên nhân do phong, hàn và thấp làm ảnh hưởng đến công năng của can, thận và tỳ gây khí trệ huyết ứ và đàm trọc ách trở sinh bệnh. Sau đây là một số thuốc trị bệnh theo các thể: Thể phong thấp nhiệt: người bệnh đau khớp đột ngột, thường vào lúc nửa đêm, có khi phát sốt. Tại chỗ khớp: sưng nóng đỏ đau; lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng dày, mạch huyền sác. Phép chữa là thanh nhiệt trừ thấp, tiết trọc thông lạc. Dùng bài Thanh trọc thống tý thang: nhẫn đông đằng 30g, hoàng bá 15g, ý dĩ 24g, thổ phục linh 24g, huyền sâm 16g, đương quy 12g, một dược 10g, ngưu tất 12g, phòng kỷ 12g, tần giao 12g, thất diệp 24g. Sắc uống. Gút là bệnh rối loạn chuyển hoá và lắng đọng các tinh thể acid uric ở khớp. Đông y gọi là bệnh thống phong. Thể khí trệ trọc ứ: khớp sưng đau khiến người bệnh không đi lại được, hay tái phát, bệnh kéo dài dai dẳng,...