Chuyển đến nội dung chính

Dược tề liệu pháp dành cho quý ông

Bất lực hay còn gọi là rối loạn cương dương, là một chứng bệnh đang có xu hướng gia tăng và làm khổ tâm khoảng 300 triệu nam giới trên toàn thế giới. Ðể phòng chống căn bệnh này, một trong những vấn đề thu hút sự quan tâm của thầy thuốc và người bệnh là tìm hiểu, nghiên cứu và sử dụng các biện pháp của y học cổ truyền, trong đó có việc xông, xoa, bôi, đắp... thuốc vào rốn, được gọi là Dược tề liệu pháp.

Phương pháp chữa bệnh độc đáo này có một lịch sử lâu đời, được ghi lại sớm nhất trong y thư kinh điển Nội kinh Tố vấn rồi sau đó được bàn luận và phát triển trong các sách thuốc nổi tiếng khác như Thiên kim yếu phương, Ngoại đài bí yếu... để chữa nhiều bệnh khác nhau, trong đó có rối loạn dương cương - chứng bệnh được Đông y gọi là “dương nuy”. Bài viết này xin được giới thiệu một số phương thang điển hình để bạn đọc tham khảo.

Phương 1:

Phụ tử 6g, xuyên ô 6g, thiên hùng 6g, quế tâm 60g, quế chi 60g, tế tân 60g, can khương 60g, xuyên tiêu 60g, tất cả thái vụn ngâm trong dầu vừng (mùa xuân 5 ngày, mùa hạ 3 ngày, mùa thu 7 ngày, mùa đông 10 ngày), sau đó đun sôi bỏ bã rồi lại đun sôi tiếp, từ từ bỏ hoàng đơn vào, quấy đều thành dạng cao, đựng trong lọ kín dùng dần. Khi dùng, quết cao thuốc lên giấy bản hoặc vải rồi dán vào rốn hoặc đan điền (tương ứng với huyệt Huyết hải, ở thẳng dưới rốn 1,5 tấc). Đây là phương thang được ghi lại trong sách Trương thị y thông, có công dụng ôn thận noãn tỳ, bổ dương cường tráng, dùng để chữa bất lực thuộc thể thận dương hư suy, ngoài ra còn chữa chứng di tinh, tinh lạnh và muộn con.

Phương 2:

Tiểu hồi hương và bào khương lượng bằng nhau, sấy khô tán bột, gia thêm một chút muối ăn rồi hòa với một chút sữa người hoặc mật ong hoặc tiết gà thành dạng cao, đắp vào rốn, dùng băng cố định, 5 ngày thay thuốc 1 lần. Công dụng: bổ mệnh môn hỏa, ôn thận trợ dương, làm ấm tỳ vị, chuyên dùng để chữa chứng liệt dương.

Phương 3:

Hành tươi 1 củ, giã nát, đắp vào rốn rồi dùng băng cố định bên ngoài, mỗi ngày sáng và tối thay thuốc 1 lần. Phương thang này ghi trong sách Tứ xuyên trung y, có công dụng ôn dương tán hàn, lưu thông kinh lạc, chuyên trị liệt dương do hàn tà xâm nhập.

Phương 4:

Dâm dương hoắc 52g, sà sàng tử 36g, ngô công 15g, băng phiến 9g, tất cả sấy khô tán bột, trộn với nước ép từ hành củ tươi thành dạng cao rồi đắp vào rốn, kế đó dùng ngón tay cái hai bên thay nhau ấn từ từ lên trên, mỗi lần từ 10 - 20 phút, mỗi ngày 2 lần vào buổi sáng khi thức giấc và buổi tối trước khi đi ngủ. Công dụng: ôn thận tráng dương, khu phong trừ thấp, chuyên dùng để chữa chứng dương vật không cương hoặc có cương nhưng không cứng, xuất tinh sớm, hoạt tinh, di mộng tinh...

Phương 5:

Đại phong tử, lưu hoàng, dương khởi thạch, sà sàng tử, hương phụ, phỉ tử mỗi thứ 3g, dế mèn 1 con, xạ hương 3g. Tất cả sấy khô tán bột, luyện với mật ong làm hoàn, mỗi ngày dùng 1 viên đặt vào rốn, cố định bằng băng dính. Phương thang này cũng được ghi trong sách Nhiếp sinh bí phương yếu quyết, chuyên dùng để chữa dương nuy, làm cho tăng độ cương cứng của dương vật và phòng chống xuất tinh sớm.

Phương 6:

Lưu hoàng 30g, bạch tật lê 30g, tế tân 30g, ngô thù du 15g, xuyên sơn giáp 10g, dương khởi thạch 30g, băng phiến 5g, tất cả sấy khô tán bột, mỗi lần lấy bột thuốc 3g hòa với nước cơm thành dạng cao rồi đắp lên rốn, cố định bằng băng dính, 2 ngày thay thuốc 1 lần. Thông thường sau 15 ngày là có chuyển biến, sau 2 tháng là có hiệu quả tốt.

Phương 7:

Lưu hoàng, bạch thược, bạch phàn, cam thảo và phỉ tử lượng bằng nhau, tất cả sấy khô tán bột, hòa với rượu trắng thành dạng cao rồi đắp lên rốn, dùng băng cố định bên ngoài, mỗi buổi sáng khi thức dậy và buổi tối trước khi đi ngủ dùng túi kín đựng nước nóng chườm lên bên trên rốn trong 20 - 30 phút, 15 ngày là 1 liệu trình. Công dụng: ôn bổ mệnh môn hỏa, cường thận tráng dương và thu liễm, chuyên dùng để chữa chứng liệt dương.

Phương 8:

Ngô thù du 5g, tế tân 1g, quế chi 1g, tất cả sấy khô tán bột. Trước tiên, trải một mảnh gạc mỏng lên trên rốn rồi đổ bột thuốc, lại trải tiếp một lớp gạc nữa rồi dùng băng cố định bên ngoài. Mỗi tối trước khi đi ngủ dùng ngón tay cái day ấn rốn trong 5 - 10 phút, 2 hoặc 3 ngày thay thuốc 1 lần. Công dụng: tán hàn thông lạc, cường dương cố tinh, chuyên dùng để chữa liệt dương, thông thường sau 15 ngày sẽ có hiệu quả rõ rệt.

BS. Hoàng Khánh Hiển

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Thuốc Đông y điều trị viêm phế quản

Trong thời tiết mùa đông, nhiệt độ trong ngày chênh lệch lớn, nóng lạnh thay đổi đột ngột khiến mọi người, đặc biệt là trẻ em và người già yếu dễ mắc viêm phế quản. Câu hỏi mà nhiều độc giả quan tâm là điều trị bằng YHCT có mang lại hiệu quả với bệnh viêm phế quản hay không khi mà việc lạm dụng kháng sinh tại nước ta đang gia tăng và nhiều cảnh báo nguy cơ kháng thuốc? Bài viết này sẽ cung cấp một số thông tin giúp bạn đọc hiểu rõ hơn về các phương pháp của YHCT trong điều trị viêm phế quản. Bệnh viêm phế quản là tình trạng viêm nhiễm cấp hoặc mạn tính niêm mạc đường thở từ thanh quản trở xuống tới nhu mô phổi. Căn nguyên gây viêm phế quản thường là do virut, vi khuẩn. Đây là bệnh lý nhiễm khuẩn đường hô hấp thường gặp khi thời tiết chuyển mùa. Theo YHCT, viêm phế quản thuộc phạm vi chứng “khái thấu” và “đàm ẩm”. Theo YHCT, nguyên nhân gây bệnh bên ngoài chủ yếu do cảm thụ phải tà khí của lục dâm như ngoại cảm phong hàn, phong nhiệt. Những yếu tố này làm cho phế khí bị ngưng trệ, mất t...

Ngũ vị và chiêm nghiệm cuộc đời

Người xưa tin rằng, ngũ hành tương sinh tương khắc, chuyển hóa qua lại, là nguồn gốc của sự vận động vũ trụ và bên trong con người. Chính vì thế, nếu dinh dưỡng cân bằng được ngũ vị, sẽ đảm bảo cơ thể khỏe mạnh, ngũ tạng được bồi bổ, sức khỏe dài lâu. Tác dụng của các vị Đông Y cho rằng, ngũ vị tương ứng với ngũ hành tạng phủ như sau: vị chua thuộc Mộc vào tạng Can, vị cay thuộc Kim vào tạng Phế, vị mặn thuộc Thủy vào tạng Thận, vị ngọt thuộc Thổ vào tạng Tỳ, vị đắng thuộc Hỏa vào tạng Tâm. Chuộng vị nào sẽ bổ cho tạng đó. Để đảm bảo cho các cơ quan được hoạt động tốt, người ta có thể “bổ” chúng bằng các vị. Mỗi cơ quan tương ứng với một vị. Bằng cách áp dụng tương sinh và tương khắc, ta có thể rút ra được: Vị mặn đi vào thận (hành thủy), nhưng mặn quá sẽ hại tim và ruột non (hành hỏa). Vị đắng đi vào tim (hành hỏa), nhưng đắng quá sẽ hại phổi và ruột già (hành kim). Vị cay đi vào phổi (hành kim), nhưng quá cay sẽ hại gan (hành mộc). Vị chua đi vào gan (hành mộc), nhưng chua quá sẽ làm...

Bài thuốc chữa bệnh goute

Bệnh goute (gút) là bệnh rối loạn chuyển hóa và tăng lắng đọng các tinh thể acid uric tại các khớp. Theo Y học cổ truyền, bệnh gút gọi là “thống phong”, thuộc chứng tý. Nguyên nhân do phong, hàn và thấp làm ảnh hưởng đến công năng của can, thận và tỳ gây khí trệ huyết ứ và đàm trọc ách trở sinh bệnh. Sau đây là một số thuốc trị bệnh theo các thể: Thể phong thấp nhiệt: người bệnh đau khớp đột ngột, thường vào lúc nửa đêm, có khi phát sốt. Tại chỗ khớp: sưng nóng đỏ đau; lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng dày, mạch huyền sác. Phép chữa là thanh nhiệt trừ thấp, tiết trọc thông lạc. Dùng bài Thanh trọc thống tý thang: nhẫn đông đằng 30g, hoàng bá 15g, ý dĩ 24g, thổ phục linh 24g, huyền sâm 16g, đương quy 12g, một dược 10g, ngưu tất 12g, phòng kỷ 12g, tần giao 12g, thất diệp 24g. Sắc uống. Gút là bệnh rối loạn chuyển hoá và lắng đọng các tinh thể acid uric ở khớp. Đông y gọi là bệnh thống phong. Thể khí trệ trọc ứ: khớp sưng đau khiến người bệnh không đi lại được, hay tái phát, bệnh kéo dài dai dẳng,...